Thứ Năm, 13 tháng 8, 2020

Lý thuyết xem Phu Thê theo Tứ Trụ (Trích Thiên Tủy)

 

Chương 1 - Phu Thê

 

Nhân duyên vợ chồng hợp ở đời,

Hỉ thần có ý gần Thiên tài.

 

Nguyên chú: Vợ và con là một vậy, trong cục có hỉ thần, cả đời phú quý quyết định ở con cái đủ, là quyết định do ở vợ. Đại khái dựa vào ở Tài xem vợ, như hỉ thần là Tài thần, thì vợ đẹp mà còn phú quý; hỉ thần và Tài thần không đố kỵ nhau cũng tốt, nếu không thì khắc vợ, hoặc cũng là không tốt, hoặc là bất hòa. Nhưng xem Tài thần, lại cần phải Hoạt pháp (phép xem phải linh hoạt), như Tài thần mỏng, cần phải dụng trợ Tài; Tài vượng thân nhược, lại hỉ Tỉ Kiếp; Tài thần hại Ấn, phải cần Quan tinh; Tài ít Quan nhiều, phải cần Thương quan. Không được Tài vận, cần xung thì xung, cần tiết thì tiết; Tài khí lưu thông, cần hợp thì hợp, cần khố thì khố. Hoặc Tài thần tiết khí quá nhiều, Tỉ Kiếp thấu lộ, cùng thân vượng không có Tài, nhất định vợ chồng là không toàn mỹ vậy. Về phần Tài vượng thân cường, tất phú quý mà nhiều thê thiếp, lúc nhìn phải biết xem xét khinh trọng như thế nào.

 

Nhâm thị viết: Phép Tử Bình, lấy Tài làm vợ, Tài là cái ta khắc. Người lấy Tài đến là ta, lý này xuất phát từ chính luận, lại lấy Tài là cha, là hậu nhân sai lầm vậy. Nếu nói căn cứ là chính xác, thì ông bà cùng gia tộc, sao không mất luân thường đạo lý chứ? Tuy nói phân ra Thiên và Chính, rốt cuộc là miễn cưỡng. Tài có thiên và chính, chỉ là phân biệt âm dương, cũng không hoán đổi khí khác, mà lý lẽ ở trên đời là không phạm thượng, cần phân biệt mà loại trừ. Nếu như Tài là cha, Quan là con, thì đạo lý luân thường vứt đi vậy, chẳng lẽ hết thảy ông bà cùng sinh cháu, là có lý sao? Là phép lấy lục thân, nay đem sửa đổi lại. Sinh ta là cha mẹ, là thiên chính Ấn vậy; Ta sinh là con cái, là Thực Thần Thương Quan vậy; Ta khắc là thê thiếp, là Thiên chính Tài tinh vậy. khắc ta là Quan Quỷ, là Tổ phụ vậy; đồng ta là anh em, là Tỉ kiên Kiếp Tài vậy; Chỗ này là danh thuận chính lý, là phép bất dịch vậy. Nói lấy Tài làm vợ, Tài thích hợp thì vợ tài năng; Tài thần trọc, thì vợ là Sư tử Hà Đông. Thanh, Tài tinh là hỉ thần, là không tranh không đố vậy. Trọc, là tụ hợp sinh Sát phá hư, là tranh giành vô tình vậy. Sách xưa bất kể nhật chủ suy vượng, cứ lấy Dương Nhận Tỉ Kiếp là khắc vợ, cuối cùng lý lẽ là không chân thực, cần phải phân biệt nhật chủ suy vượng hỉ kỵ, tứ trụ phối hợp mà xem linh hoạt mới đúng.

 

Như Tài thần khinh mà không có Quan, Tỉ Kiếp nhiều, chủ khắc vợ.

Tài thần trọng mà thân nhược, không có Tỉ Kiếp, chủ khắc vợ.

Quan Sát vượng mà dụng Ấn, gặp Tài tinh, chủ vợ xấu mà khắc vợ.

Quan Sát khinh mà thân vượng, thấy Tài tinh, gặp Tỉ Kiếp, chủ vợ đẹp mà khắc vợ.

Kiếp Nhận trọng, Tài tinh khinh, có Thực Thương, gặp Kiêu Ấn, chủ vợ bị nguy hiểm.

Tài tinh ít, Quan Sát vượng, không có Thực Thương, có Ấn thụ, chủ vợ có bệnh suy.

Kiếp Nhận vượng, mà Tài khinh, có Thực Thương, vợ hiền mà không khắc.

Quan tinh nhược gặp Tài tinh, vợ xấu mà không khắc.

Thân cường Sát nhẹ, Tài tinh sinh Sát, Quan khinh Thương quan trọng, Tài tinh hóa Thương quan, Ấn thụ trùng điệp, Tài tinh đắc khí, chủ vợ hiền mà đẹp, hoặc được thê tài dẫn đến giàu có.

Sát trọng thân khinh, Tài tinh bè đảng với Sát, Quan nhiều dụng Ấn, Tài tinh phá Ấn, Thương quan bội Ấn, Tài tinh đắc cục, chủ vợ không hiền mà xấu, hoặc vì vợ mà mang họa vào thân.

Nhật chủ tọa Tài, Tài là hỉ dụng thần, tất được vợ cùng tài sản.

Nhật chủ hỉ Tài, Tài hợp Nhàn thần mà hóa Tài, nhất định phải theo vợ.

Nhật chủ hỉ Tài, tài hợp Nhàn thần mà hóa thành kỵ thần, chủ vợ ngoại tình.

 

Tùy theo nhật chủ hỉ kị mà luận. Nếu Tài tinh phù phiếm, cần Tài nên ẩn sâu, cần xung động mà dẫn trợ. Cần phải nghiên cứu kỹ càng.

 

230 - Quý Mão - Ất Sửu - Canh Thân - Đinh Sửu 

 

Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi

 

Tạo này kim hàn tọa lộc, Ấn thụ nắm quyền, đủ để dụng hỏa địch hàn. Chỗ kỵ, can năm Quý thủy khắc Đinh là bệnh, hoàn toàn dựa vào can tháng Ất mộc thông căn, tiết thủy sinh hỏa, chỗ này hỉ thần là Tài tinh vậy. Càng hỉ Tài tinh gặp hợp, gọi là Tài đến theo ta, vợ hiền thục mà siêng năng, sinh 3 con, đều là dòng dõi nho học.

 

231 - Đinh Mùi - Ất Tị - Đinh Dậu - Quý Mão 

 

Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi

 

Đinh hỏa sinh vào đầu mùa hạ, trong trụ có Kiêu Kiếp nắm quyền, một điểm Quý thủy, không đủ ức chế, hỉ nhất là nhật chủ tọa dưới Dậu kim, xung khử Mão mộc, sinh khởi Quý thủy. Xuất thân bần hàn, vận Quý nhập học, lại được tài sản cự vạn; vận Nhâm đăng khoa, vận Tân Sửu đắc tuyển tri huyện, làm quan Quận trưởng. Tạo này nếu không có Dậu kim, chẳng những không có tài, mà danh cũng không có vậy.

 

232 - Ất Hợi - Canh Thìn - Bính Thân - Nhâm Thìn

 

Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất

 

Bính hỏa sinh vào cuối mùa xuân, Ấn thụ thông căn sinh vượng, nhật chủ tọa Tài, can giờ lại thấu Nhâm thủy, tất lấy Ất mộc làm dụng thần. Cũng ngại, Ất Canh hợp hóa kim, sinh Sát phá Ấn, nên vợ không hiền, đố kỵ hung dữ dị thường, tắt đường không con. Tài làm hại. Đáng sợ quá!

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét