Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý thuyết xem về Anh-Chị-Em theo Tứ Trụ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý thuyết xem về Anh-Chị-Em theo Tứ Trụ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2020

Lý thuyết xem huynh đệ (Trích Thiên Tủy)

 

Chương 4 - Huynh Đệ

 

Huynh đệ ai phế cùng ai hưng,

Đề dụng Tài thần xem trọng khinh.

 

Nguyên chú: Bại Tài Tỉ kiên Dương Nhận, đều là anh em vậy. Thần phải ở đề cương, cùng so sánh Tài thần Hỉ thần khinh hay trọng, Tài Quan nhược, cả ba cùng hiển lộ vết tích cướp đoạt, anh em tất cường; Tài Quan vượng, cả ba xuất ra có công trợ giúp nhật chủ, anh em tất đẹp; thân và Tài Quan quân bình, mà cả ba ẩn đều không lộ, anh em tất quý; Tỉ kiên trọng mà hại dân Tài Sát cũng vượng, anh em tất phú. Thân nhược mà bang trợ không lộ, có Ấn mà anh em tất nhiều; thân vượng mà cả ba lại lộ, không có Quan mà anh em tất suy.

 

Nhâm thị viết: Tỉ kiên là anh, Bại tài (Kiếp) là em, Lộc Nhận cũng luận giống như vậy.

 

Như Sát vượng không có Thực, Sát trọng không có Ấn, được Bại tài (Kiếp) hợp Sát, tất được em trợ lực.

Sát vượng Thực khinh, Ấn nhược gặp Tài, được Tỉ kiên địch Sát, tất được anh trợ lực.

Tài khinh Kiếp trọng, Ấn thụ chế Thương quan, không tránh giống như Tư Mã.

Tài Quan thất thế, Kiếp Nhận làm càn, lo buồn giống như Chu Công.

Tài sinh đảng Sát, Tỉ Kiếp trợ thân, có thể ngũ chung với anh cả; Sát trọng không có Ấn, nhật chủ suy Thương lại ẩn, anh em không thể không than thở.

Sát vượng Ấn ẩn, Tỉ kiên vô khí, em tuy kính mà khiến vẫn suy.

Quan vượng Ấn khinh, Tài tinh đắc khí, anh dù có yêu mà em cũng không thành.

Nhật chủ tuy suy, Ấn vượng ở đề cương tháng, anh em hợp thành bầy.

Thân vượng gặp Kiêu, Kiếp trọng không có Quan, một thân chủ trì.

Tài khinh Kiếp trọng, Thực Thương hóa Kiếp, có thể yên ổn.

Tài khinh gặp Kiếp, Quan được lộ rõ, không xảy ra chuyện nồi da nấu thịt.

Kiêu Kiếp trọng phùng, Tài khinh Sát ẩn, không tránh khỏi đau buồn hao tổn.

Nhật chủ suy có Ấn, Tài tinh gặp Kiếp, trái lại anh em có thể hưng vinh.

 

Bất luận đề cương hỉ kỵ, hoàn toàn mượn nhật chủ là yêu hay ghét, cần xem xét cho thật kỹ.

 

244 - Đinh Hợi - Nhâm Dần - Bính Tý - Đinh Dậu 

 

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

 

Bính hỏa sinh vào đầu xuân, là nói giúp hỏa mang lửa, không luận vượng. Can tháng Nhâm thủy thông căn, Hợi Tý là Sát vượng không bị chế, mừng Đinh hỏa thấu lộ, Dần Hợi hợp mà hóa Ấn, lấy tạp thành ơn. Chi giờ Dậu Tài tinh, sinh Quan khắc Ấn, lại được Đinh hỏa tọa Dậu, khiến cho kim không thể khắc mộc, cho nên anh em là 7 người, đều liền học hành, hơn nữa anh yêu em kính.

 

245 - Quý Tị - Mậu Ngọ - Bính Ngọ - Canh Dần 

 

Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý

 

Tạo này Dương Nhận nắm quyền, lại phùng sinh vượng, càng thêm lo, Mậu hợp Quý hóa hỏa, Tài lại bị nhiều chỗ Kiếp đoạt, anh em 6 người, đều không thành tài, vất vả kinh khủng. Tôi tạo năm tháng ngày đều giống nhau, đổi một giờ Nhâm Thìn, Sát nhược không thể tương chế, cũng có 6 em trai, được lực nhưng chết sớm, còn lại đều chẳng ra gì, dẫn đến liên lụy phá nhà. Tóm lại Kiếp Nhận thái vượng, Tài Quan vô khí, anh em lại ít, dẫu có, không bằng không có. Nhưng Quan Sát thái vượng, anh em cũng thương tàn, bí mật cần phải Thân và Tài cùng vượng, Quan Ấn thông căn, có thể anh em trung hậu nghĩa tình.

 


Lý thuyết xem về Anh-Chị-Em theo Tứ Trụ

 

Căn cứ theo phương pháp cổ: trụ năm là tổ tiên, trụ tháng là cha mẹ, trụ ngày là mình và vợ, trụ ngày là con cái. Anh chị em là một lục thân, nhưng trong Tứ trụ lại không có vị trí. Do đó rất ít học giả về sau không rõ anh chị em thực chất thuộc cung nào, nên không có cách gì để dự đoán được.

Sách "Tam mệnh thông hội" nói về cách sắp xếp của lục thân trong Tứ trụ rất rõ ràng: "Phàm đoán lục thân thì lấy năm làm cha, lấy thai làm mẹ, lấy tháng làm anh em, lấy ngày làm mình và vợ, lấy giờ làm con". 

1 - Như thế rõ ràng trụ tháng là cung anh em và thực tiễn chứng minh rất đúng.

2 - Trong Tứ trụ lấy gì làm cung anh em, hiện nay trong ứng dụng không thống nhất. 

3 - Có người lấy thiên can địa chi của tháng sinh làm anh em, có người lấy ngang vai, kiếp tài, kình dương là anh em, có người lại lấy ấn làm anh em. 

4 - Trong thực tế ứng dung, tôi lấy trụ thang làm cung anh chị em. 

5 - Nhưng thiên can địa chi của tháng không nhất định là anh chị em cụ thể. 

6 - Anh chị em ruột của chính mình là phải lấy ngang vai, kiếp tài, lộc, kình dương làm tiêu chí. 

7 - Vì ngang vai, kiếp lộc, kình dương trong ngũ hành là cùng loại với nhau, lấy thiên can làm tỉ kiếp, địa chi làm lộc, kình dương. 

Ví dụ: giáp gặp giáp là ngang vai, giáp gặp ất là kiếp tài, giáp gặp dần là lộc, giáp gặp mão là kình dương. Cũng tức là nói, người sinh ngày giáp trong trụ thấy mộc đều là do mẹ nhâm hoặc quý sinh ra, cho nên đều là tiêu chí thông tin anh chị em cả.

8 - Tháng là cung anh chị em. 

9 - Mệnh nam can tháng là anh em, chi tháng là chị em. 

10 - Mệnh nữ can tháng là chị em, chi tháng là anh em. 

11 - Thiên can, địa chi của trụ tháng đều ở vượng địa thì nói chung anh chị em nhiều, sức khỏe tốt.

12 - Trong Tứ trụ của một người, có thể có bao nhiêu anh chị em thì tất cả những sách dự đoán về Tứ trụ hiện có đều không bàn luận đến, còn trong thực tế ứng dụng thì người được đoán thường muốn nói: có mấy anh chị em? Rất nhiều đại sư không có cách nào trả lời.

13 - Có bao nhiêu anh chị em ? Trong thực tiễn tôi tìm tòi, khám phá như sau: nếu trong Tứ trụ mộc là anh chị em thì có bao nhiêu mộc, lại căn cứ mộc đó gặp đất sinh vượng hay tử tuyệt để xác định số lượng anh chị em. Nếu nắm vững được lệnh vượng suy thì độ dự đoán chính xác càng cao, nếu có sai lệch thì cũng chỉ trên dưới một, hai người. 

Năm 1991 tôi sang Xingapo và Thái Lan không những để giảng bài mà còn có nhiệm vụ khảo sát về kỹ thuật dự đoán qua Bát quái, Tứ trụ và Tướng học. Qua thực tiễn dự đoán chứng minh rằng: phương pháp dự đoán của Trung Quốc và kỹ thuật của nó cũng rất thích ứng dụng và phù hợp ở nước ngoài, những trường hợp tôi đoán đều rất chuẩn. Tuy nhiên, khi đoán về số anh em thì đều có số sai cả. 

Ví dụ trong Tứ trụ: số anh em mà đoán ở Trung Quốc là 6 người hoặc trên dưới 6 người thì ở các nước Ðông nam á ( như Philipin, Inđônêxia, Mianma, Malaixia, Xingapo, Thái Lan, Hồng Kông ) và Úc, số anh em phải căn cứ kết quả cân đối trong Tứ trụ rồi gấp đôi lên mới đúng. Vì sao số anh chị em ở những nước này lại nhiều gấp đôi so với những người Trung Quốc có Tứ trụ giống nhau? Tôi cho rằng có hai nguyên nhân: thứ nhất là từ địa lý mà nói, điều kiện khí hậu của họ tốt cho nên từ hàn đới chuyển sang ôn đới, á nhiệt đới cho đến vùng nhiệt đới có xu thế tăng lên rõ rệt. Thứ hai là sinh nhiều hay sinh ít là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và chế độ quan niệm ở đó quyết định.

14 - Về nội dụng cần dự đoán trên phương diện anh chị em có rất nhiều, ngay cả việc thời gian nào sinh nam, thời gian nào sinh nữ, thai nào là nam, thai nào là nữ, anh em có tất cả mấy người, hiện nay còn mấy người, mấy nam, mấy nữ, v.v.. Trong thực tế, những người có kỹ thuật cao cường đã từng đoán được rất chính xác, nghe nói đó là nhờ dùng " Thiết bản thần số". Nhưng "Thiết bản thần số" đòi hỏi gia truyền để lại bí quyết nay. Nói chung những người có sách này tôi chỉ có thể nói về số lượng anh em có bao nhiêu theo kinh nghiệm của bản thân để mọi người tham khảo.