Chương 7 - Tiểu Nhi
Luận Tài luận Sát luận Tinh thần,
Tứ trụ hòa bình dễ nuôi dưỡng,
Khí thế đi dài không đoạt mất,
Cửa Sát dù có không hại thân.
Nguyên chú: Tài thần không bè đảng Thất Sát, chủ vượng
tinh thần đủ thông, can chi yên ổn hòa bình. Lại phải xem khí thế, như khí thế ở
nhật chủ, mà nhật chủ hùng tráng; khí thế ở Tài Quan, mà Tài Quan không nghịch
với nhật chủ; khí thế ở đông nam, mà trước 5,7 tuổi, không hành tây bắc; khí thế
ở tây bắc, mà trước 5, 7 tuổi, không hành đông nam. Hành vận không gặp mất trước,
chỗ này là khí thế xa dài, dù có cửa Sát, cũng không hại thân.
Nhâm thị viết : Mệnh tiểu nhi, thường thấy rõ là dễ thương
thì khó nuôi, xấu xí khó nhìn thì lại dễ lớn, tuy là cửa vận khí gia môn, cũng
cần xem xét căn nguyên là nông hay sâu. Mà mệnh Tiểu nhi, thì giống như mầm quả
ban đầu, cần phải bồi bổ thật tốt, là tất nhiên không cần phải nói. Nhưng trước
khi chưa thành hình, cha mẹ không kiềm chế việc phòng the, trong chất độc thụ
thai, sau khi vừa sinh ra, quan tâm quá mức, hoặc là không có kiêng kỵ ăn uống,
hoặc là không có điều hòa ấm lạnh, mang theo nhiều loại tật bệnh, thậm chí
không kể hết nỗi. Còn có gia đình tích ác, mà không lo sợ, dù mệnh tiểu nhi, là
rõ ràng thuần túy, cho nên khó nuôi dưỡng vậy. Kế đến liên quan đến kỵ âm dương
mộ phần, di dời sửa chữa làm tổn hại, dẫn đến chết yểu. Cho nên mệnh tiểu nhi,
là không dễ xem vậy. Ngoại trừ những điều đã kể ra, tiếp theo luận mệnh, tất cần
tứ trụ yên bình, không bị thiên khô, không bị xung khắc, thông căn nguyệt lệnh,
khí thông giờ sinh, Sát vượng có Ấn, Ấn nhược có Quan, Quan suy có Tài, Tài
khinh có Thực Thương, sinh hóa hữu tình, lưu thông không nghịch, hoặc có một thần
đắc dụng, thủy chung không xấu, hoặc hai ý tương thông, che chỡ lẫn nhau, chưa
giao vận mà lưu niên bình thuận, vừa giao vận thì vận đồ an tường, chỗ này gọi
là khí thế xa dài, tự nhiên dễ dàng thành người, trái lại chỗ này tất là khó nuôi
vậy. Còn lại cửa sát nhiều loại, tất cả đều sai lầm xằng bậy, tất nên loại bỏ
toàn bộ, chấm dứt sai lầm về sau.
305 - Tân Sửu - Quý Tị - Bính Tý - Đinh Dậu
Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi
Bính hỏa sinh vào tháng Tị, tuy nói là kiến lộc, nhưng ngũ hành
không có mộc sinh trợ. Thiên can lại thấu Tài Quan, địa chi không nên lại thấy
Dậu Tý, lại càng không nên hội kim cục. Tuy Đinh hỏa có thể trợ thân, Quý thủy
làm tổn hại, gọi là Tài đa thân nhược, lại thêm có Quan tinh vượng, nhật chủ cực
hư nhược vậy. Vả lại đầu vận giao Nhâm phùng Sát, năm Tân Hợi, thiên can gặp Nhâm
Quý khắc Bính Đinh, địa chi Hợi xung Tị phá lộc, nhổ hết căn vận, mắc bệnh cam
tích vàng da mà chết.
306 - Quý Sửu - Kỷ Mùi - Bính Dần - Tân Mão
Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu
Tạo trước bởi vì Tài Quan thái vượng, dẫn đến yểu mệnh, tạo
này nhật chủ tọa trường sinh, lại sinh mùa hạ, Tài Quan là dụng thần, Thương
Quan là hỉ thần, Thương sinh Tài, Tài lại sinh Quan, tựa như là sinh hóa hữu tình.
Chẳng biết tạo trên là Tài đa thân nhược, lấy Quan thành Sát, tạo này Tài tuyệt
Quan hưu tù, e rằng khó hưởng hậu hỷ. Quý thủy Quan tinh sinh tháng Mùi, hỏa thổ
táo khô, dư khí ở Sửu, tàng kim chứa thủy, nhưng Kỷ thổ phủ đầu làm tổn thương
Quý thủy, Sửu Mùi xung mất căn gốc kim thủy, can giờ Tân lại lâm tuyệt địa, tuy
có mà như không, cách xa làm sao có thể sinh Quý thủy chứ? Thì Kỷ thổ cũng không
thể sinh kim xa cách. Mà vận trình lại chạy đến đông nam đất mộc hỏa, nhất định
không thể là người kế thừa gia nghiệp vậy.
307 - Canh Tuất - Nhâm Ngọ - Bính Dần - Kỷ Hợi
Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý
Bính dụng Nhâm Sát, thân cường Sát yếu, lấy Sát hóa quyền. Hỉ
Tài sinh Sát nhược, tất nhiên là danh lợi song toàn. Tiếc là chi toàn hỏa cục,
Dần Hợi lại hợp hóa mộc mà sinh hỏa, can năm tháng Nhâm Canh vô căn mà thiếu
sinh phù, đến năm Đinh Tị, Tị xung Hợi khử mất lộc Nhâm thủy, Đinh hỏa hợp khử
Nhâm thủy dụng thần, chết do bệnh cam tích vàng da.
308 - Nhâm Thân - Mậu Thân - Nhâm Thân - Mậu Thân
Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần
Nhâm thủy sinh vào mùa thu, địa chi đều tọa đất trường sinh,
thiên can thấu hai Mậu, nhìn qua xu hướng, địa chi toàn là nhất khí, là Lưỡng
can bất tạp, mà lại là Sát Ấn tương sinh, là đại quý cách. Chẳng biết kim đa thủy
trọc, mẫu đa tử bệnh, tứ trụ không có hỏa khắc kim, kim lại không thể sinh thủy,
tinh hoa Mậu thổ tiết hết ở kim, gọi là tượng thiên khô, tất nhiên khó nuôi dưỡng,
danh lợi đều hư, quả nhiên chết vào năm 3 tuổi năm Giáp Tuất.
309 - Nhâm Thân - Giáp Thìn - Nhâm Thân - Mậu Thân
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất
Nhâm thủy sinh vào cuối mùa xuân, tựa như Sát Ấn tương sinh,
địa chi gặp 3 Thân kim trường sinh, Thực thần chế Sát thành quyền, định là quý
cách. Chẳng biết xuân thổ hư khí, tháng thấu Giáp mộc, chẳng những Thìn thổ bị
chế, mà can giờ Mậu thổ, cũng bị khắc. Ngũ hành không có hỏa, không được may mắn
sinh sôi, cũng là mẫu đa tử bệnh, là tượng thiên khô, tất nhiên khó nuôi dưỡng.
Về sau chết do bệnh đậu mùa.
310 - Quý Sửu - Nhâm Tuất - Đinh Hợi - Nhâm Dần
Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn
Tạo này Đinh hỏa âm nhu, sinh vào cuối thu, Quan Sát trùng điệp,
tất không thể nuôi dưỡng. Chẳng biết Quan Sát tuy vượng, hay là ở tháng Tuất,
thân thông căn khố, đủ để chế thủy, càng hay là không có kim, chi giờ Dần mộc
không tổn thương, khí thông ở giờ sinh, đủ để nạp thủy, chẳng những dễ nuôi, mà
còn có thể toại chí họa hành. Nhưng mà một loại Quan Sát, chớ nên lấy Quan là hỉ,
Sát là ghét, thân nhược thì Quan đều là Sát, thân vượng thì Sát đều là quan, chỉ
cần không có Tài mà có Ấn, liền là tạo tốt. Như nói Đinh hỏa tử ở Dần, là cực kỳ
sai lầm vậy. Dần tàng Giáp mộc, chính là mẫu của Đinh, cớ sao lại tử? Phàm can âm
lấy sinh địa làm tử, tử địa là sinh, là không phải chính luận vậy. Quả nhiên lúc
nhỏ không có bệnh tật, thông minh hơn người, sau đến năm Giáp Tuất nhập học. Vận
đến nam phương hỏa thổ, chế Sát phù thân, không thể hạn chế số lượng thành công
vậy.
311 - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Đinh Dậu - Kỷ Dậu
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất
Tạo này đại thể nói thấu mộc ở can tháng, xuân mộc đủ để
sinh hỏa, can năm Nhâm thủy sinh mộc, ngày giờ tọa hai trường sinh, đều luận lấy
vượng. Tiếc rằng địa chi thổ kim thái trọng, tất là căn thiên can thủy mộc yếu,
thủy mộc vô khí, thì mái ấm của Đinh hỏa không được kiên cố. Giáp mộc sinh vào
cuối mùa xuân, mộc đang thoái khí, Thìn Dậu hợp mà hóa kim, thì dư khí Giáp mộc
lâm tuyệt địa. Tuất thổ ngăn cách, khiến cho kim không thể sinh thủy, Tuất thổ đủ
để chế thủy, Nhâm thủy thụ khắc mà không thể sinh mộc. Thìn Dậu hóa kim, tất có
thể khắc mộc, cũng biết căn gốc nhật chủ không kiên cố. Nếu như nói Dậu là nơi Đinh
hỏa trường sinh, là ngũ hành đảo nghịch vậy. Trong Dậu thuần có Tân, không có tạp
khí, kim sinh thủy, lý là không có sinh hỏa. Hỏa đến Dậu kim, đất tử tuyệt, càng
sợ can giờ có Kỷ thổ, lấy mất đi nguyên thần nhật chủ, sinh kim tiết hỏa, mà 3
chữ thủy mộc hỏa đều hư nhược vậy. Hậu quả chết yểu ở năm Quý Dậu. Bởi vậy luận
mệnh tiểu nhi, là không dễ nhìn vậy.