Chương 26. Xuất Thân
Lồng lộng khoa thi từng bước tiến,
Một chút huyền cơ ám lý tồn.
Ngyên chú: Phàm xem mệnh xem xuất thân con người là rất
khó, như xuất thân Trạng nguyên, cách cục thanh là khác hẳn, lúc ẩn lúc lộ,
khó mà quyết, tất có nguyên cơ, phải sưu tầm.
Nhâm thị viết: Chúng ta luận mệnh xuất thân là rất khó.
Cho nên có huyền cơ tồn tại ở chỗ này.
Huyền cơ, chẳng những cách cục thanh là khác hẳn, phân biệt
dụng thần chân giả, trong đó phải nghiên cứu thần tàng nắm mệnh, gồm dụng thần
hỉ thần, khiến cho nhàn thần kỵ thần không thể tranh chiến, lại có tình sinh củng.
Lại có cách cục vốn không có chỗ xuất sắc, mà thanh danh vang dội, tất trước tiên
cần nghiên cứu thế hệ đức hạnh tốt hay xấu, kế đến luận phong thủy thanh tú. Đến
từ thế hệ phúc đức, mà không luận mệnh vậy. Cho nên tâm đức là số một, phong thủy
là số hai, mệnh cách là thứ ba.
Nhưng xem mệnh quan trọng ở chỗ nhất định Sát Ấn Tài Quan,
Quan Ấn song thanh thì đẹp vậy. Nếu như Sát Ấn Tài Quan rõ ràng, cảm động lòng
người, tất là mệnh tốt. Nếu dụng thần quá nhược, hỉ thần ám phục, tú cũng thâm
tàng, mới nhìn cũng không có chỗ tốt, càng xem càng có sức sống, trong đó tất có
huyền cơ, nên sưu tầm cẩn thận.
459 - Nhâm Thìn - Nhâm Dần - Kỷ Mùi - Mậu Thìn
Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân
Kỷ thổ sinh vào đầu xuân, Quan tinh nắm lệnh, thiên can bao
phủ lấy Tài tinh, có tình sinh Quan. Nhưng đầu xuân Kỷ thổ ẩm thấp mà còn hàn lạnh,
năm tháng Nhâm thủy, thông căn thuỷ khố, hỉ có Bính hỏa tàng trong Dần nắm lệnh
làm dụng thần, phục mà phùng sinh, gọi là “Huyền cơ ám lý tồn” vậy. Đến Bính vận,
nguyên thần phát lộ, năm Mậu Thìn trợ giúp can giờ, khắc khử Nhâm thủy, thì Bính
hỏa không bị khắc, làm Trạng nguyên thiên hạ. Nếu theo tục luận, Quan tinh không
hiện, Tài khinh Kiếp sinh, nói là mệnh bình thường vậy.
460 - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Giáp Tuất - Bính
Dần
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất
Giáp mộc sinh vào cuối xuân, khí mộc có thừa, lại được Tỉ Kiếp
lộc trợ giúp, can giờ Bính hỏa độc thấu, thông sáng thuần túy. Can năm Nhâm thủy,
tọa táo thổ chế thủy, lại phùng Tỉ Kiếp Giáp mộc hóa tiết, gián tiếp tương
sinh, thì Bính hỏa càng đắc thế. Đến Mậu vận, nguyên thần Mậu thấu ra chế Nhâm
thủy, anh hùng hội ngộ, đỗ đạt tam nguyên. Là do đường nhân quan không hiển đạt,
đến vận phương tây kim địa, tiết thổ sinh thủy vậy.
461 - Giáp Dần - Đinh Sửu - Đinh Mão - Canh
Tuất
Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi
Đinh hỏa sinh vào cuối đông, trong cục trùng điệp mộc hỏa,
nhược biến thành vượng, đủ để dụng Tài. Canh kim thấu lộ hư nhược, vốn không xuất
sắc, hỉ có Sửu tàng Tân kim làm dụng, cũng là huyền cơ ám lý tồn vậy. Sửu chính
là tú khí của nhật nguyên, có thể dẫn Tỉ kiên đến sinh, lại gặp Mão Tuất hợp, mà
Sửu thổ không tổn thương, cho nên thân ở vương vị, đỗ đạt Thám hoa.
462 - Đinh Hợi - Nhâm Tý - Canh Tý - Tân Tị
Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ
Canh kim sinh vào giữa đông, Thương quan thái vượng, tiết khí
quá mức, dụng thần ở thổ, không ở hỏa vậy. Hỏa ở trong trụ, bất quá thủ làm ấm
cục vậy. Tứ trụ không có thổ, lấy Mậu thổ tàng ở trong Tị, không vượng khắc hỏa,
hỏa có thể sinh thổ, cũng là huyền cơ ám lý tồn. Đến Mậu vận, năm Bính Thìn, hỏa
thổ tương sinh, nguyên thần trong Tị cùng phát, cũng cư vương vị.
Lúc được Thanh làm khách bảng vàng,
Cho dù tồn trọc khí cũng đỗ.
Nguyên chú: Mệnh thiên hạ, không có không thanh mà
phát khoa Giáp, được dùng thanh, tất từng cái đều thành tượng, dù ra hết ngũ
hành, mà có chỗ sắp đặt, sinh hóa hữu tình, thân thần không hỗn kỵ và khách,
quyết phát khoa Giáp. Tức là có 1,2 trọc khí, mà thanh khí có thể thành một
đoàn thể, cũng có thể phát đạt.
Nhâm thị viết: Chỉ được thanh, không thành một nhóm, lưỡng
khí như nhau. Dù cho ngũ hành thấu xuất hoàn toàn, mà khí thanh độc phùng sinh
vượng, hoặc là chân thần đắc dụng, nhất định đề tên bảng vàng. Nếu thanh khí nắm
quyền, nhàn thần kỵ thần khách thần không nắm lệnh, không thâm tàng, cùng tuế vận
chế hóa, cũng phát khoa Giáp vậy. Thanh khí nắm quyền, tuy có trọc khí, mà được
xếp theo thứ tự, tuy không thể phát Giáp, cũng phát khoa vậy. Thanh tiến tuy không
lo, thân gặp thần kỵ khách không kết bè đảng khí trọc, phụ tá thanh khí, hoặc
tuế vận yên ổn, cũng có thể thi đậu vậy.
463 - Mậu Thìn - Ất Mão - Kỷ Mão - Bính Thìn
Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu
Tạo Bình Truyền Lư. Kỷ thổ sinh tháng Mão, đề cương Sát vượng,
nguyên Ất mộc thấu lộ, chi thuộc phương đông, trong can giờ hỏa sinh vượng,
trong cục không tạp kim thủy, được dùng thanh vậy. Nếu một khi thấy kim, chẳng
những không thể khắc mộc, mà kim tự bị thương, là động đến vượng thần, cùng đường
bất hòa, là không đầy đủ vậy.
464 - Quý Mùi - Kỷ Mùi - Canh Tý - Giáp Thân
Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu
Canh kim sinh vào tháng Mùi, táo thổ vốn khó sinh kim, hỉ tọa
dưới Tý thủy, năm thấu nguyên thần, gọi là Tam phục sinh hàn, nhuận thổ dưỡng
kim. Mặc dù thổ vượng thuỷ suy, may có giờ Thân củng Tý, tiết thổ sinh thủy trợ
thân là đẹp, càng đẹp hỏa không thấu lộ, được dùng thanh vậy. Đầu vận Mậu Ngọ, Đinh
Tị, Bính, sinh thổ bức thủy, công danh lận đận, gia nghiệp hao phá. Thìn vận đủ
thành thủy cục, đậu thi Hương. Giao vận Ất Mão, chế khử Kỷ Mùi thổ, đăng bảng vàng,
nhập cung vua, lại nắm giữ văn tự, đường quan hiển hách.
465 - Quý Mùi - Quý Hợi - Giáp Ngọ - Đinh Mão
Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị
Giáp mộc sinh vào tháng Hợi, cùng thấu 2 Quý thủy, khí thế
tràn lan. Đông mộc hỉ gặp hỏa, hỉ nhất là giờ Mão, không những Đinh hỏa thông căn,
mà nhật chủ cũng lâm vượng, lại hội mộc cục, tiết mộc sinh hỏa phù thân. Hay là
không có kim, được dùng thanh vậy. Đến vận Kỷ Mùi, chế Quý thủy, năm Bính Thìn,
vào cung vua, giữ quan vị trọng yếu.
466 - Nhâm Thìn - Kỷ Dậu - Quý Mão - Kỷ Mão
Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão
Nhật nguyên Quý Mão, Thực thần quá trọng, chẳng những tiết
khí nhật nguyên, mà còn chế sát quá mức. Hỉ thu thủy thông nguyên, độc Ấn đắc dụng,
càng đẹp có Thìn Hợp mà hóa kim, khí kim càng vững chắc, trong cục hoàn toàn không
có hỏa, là được dùng thanh vậy. Cho nên bước lên quan vị, danh cao hàn uyển. Tiếc
là trung vận phùng mộc, e rằng đường quan khó mà hiển đạt.
467 - Kỷ Hợi - Giáp Tuất - Canh Tý - Bính Tý
Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn
Canh kim sinh vào tháng Tuất, địa chi có 2 Tý 1 Hợi, can thấu
Bính hỏa, là khắc tiết giao gia. Hỉ có đề cương Ấn vượng, tuy sợ Giáp mộc sinh
hỏa khắc thổ, gặp Giáp Kỷ hợp mà hóa, là được dùng thanh vậy. Đến vận Kỷ Tị, Ấn
tinh được trợ, xung khử Hợi thủy, Giáp mộc trường sinh, ghi tên bảng vàng vậy.
468 - Kỷ Hợi - Bính Tý - Canh Tý - Tân Tị
Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ
Canh kim sinh vào giữa mùa đông, địa chi có 2 Tý 1 Hợi, can
thấu Bính hỏa, cũng là khắc tiết giao gia. Hỉ có Kỷ thổ thấu lộ, tiết hỏa sinh
kim, ngũ hành không có mộc, là được thanh khí vậy. Đến năm Kỷ Tị, Ấn tinh được
trợ, danh cao hàn uyển, chỗ không đủ, là Ấn tinh không nắm lệnh, kỷ thổ lại xa đàn
mà hư nhược, cho nên giáng xuống làm Tri huyện.
469 - Bính Thân - Nhâm Thìn - Bính Tý - Nhâm
Thìn
Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất
Bính hỏa sinh vào cuối xuân, hai Sát cùng thấu, chi hội Sát
cục, hỉ Thìn thổ nắm lệnh chế Sát, có dư khí mộc ở trong Thìn mà sinh nhật chủ,
bệnh ở Thân kim, chỗ này không hết đẹp. Cho nên tư chất hơn người. Năm Đinh Mão
hợp Sát, mà Ấn tinh đắc địa, được đăng Hương bảng. Năm Tân Mùi khử Tý thủy, mộc
hỏa đều được dư khí, mùa xuân thi đậu. Kết quả là ngại Thân kim, không được điều
động trọng dụng. Càng kỵ vận đến phương tây, lấy rượu bầu bạn vậy.
470 - Mậu Ngọ - Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Ất Tị
Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn
Nhâm thủy sinh vào tháng Tuất, thủy tiến khí, mà được tọa dưới
Dương Nhận trợ thân, can năm là Sát, Tỉ Kiếp ngăn cản, gọi là Thân Sát lưỡng đình,
bệnh ở Ngọ, Tý Ngọ xung nhau, lại sợ Tị hỏa, Tý thủy ngăn cách, khiến cho không
thể sinh Sát, mà Tân kim ám tàng ở trong Tuất làm dụng, anh em sinh đôi, đều được
Tiến sĩ.
471 - Canh Tuất - Tân Tị - Ất Mão - Mậu Dần
Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi
Ất mộc sinh vào tháng Tị, Thương quan nắm lệnh, đủ để chế
Quan phục Sát, tọa dưới chi lộc phù thân, giờ Dần lại là Đằng la hệ Giáp, đến năm
Canh Thìn, chi thuộc phương đông, trúng Hương bảng, không phát Giáp, chỉ vì tứ
trụ không có Ấn, là do Tuất thổ tiết hỏa sinh kim vậy. Anh em sinh đôi, em sinh
vào giờ Mão, tuy cũng đắc lộc, không bằng Dần tàng Giáp mộc có lực, mà tàng là
tốt, cho nên chậm ở năm Kỷ Hợi, Ấn tinh sinh phù, mới được bảng tên vậy.
472 - Quý Hợi - Ất Mão - Mậu Ngọ - Giáp Dần
Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu
Mậu thổ sinh vào giữa xuân, Quan Sát cùng vượng lâm lộc, lại
được Hợi thủy sinh phù, tuy tọa dưới Ngọ hỏa Ấn thụ, hư thổ không thể nạp hỏa,
trở thành Tòng Sát, luận thủy làm hỗn, Tý vận xung khử Ngọ hỏa, năm Canh Tý kim
sinh thủy, xung khắc tuyệt hỏa khí, trúng Hương bảng.
473 - Mậu Tý - Nhâm Tuất - Canh Dần - Quý Mùi
Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn
Canh kim sinh vào tháng Tuất, Ấn tinh nắm lệnh, kim cũng hữu
khí, dụng thần ở thủy, không ở hỏa vậy. Đến năm Canh Thân, Nhâm thủy phùng
sinh, lại tiết khí thổ, thi đỗ. Chỗ phát, là nguyên thần Mậu thổ thấu lộ, mùa
xuân không lợi thi cử, thêm trong vận mộc hỏa, tất hao phá nhiều.
474 - Mậu Tý - Kỷ Mùi - Tân Hợi - Mậu Tý
Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu
Tân kim sinh vào cuối hạ, trong cục tuy nhiều táo thổ, hay là
ở địa chi có Hợi Tý hội thủy cục, năm giờ phùng Tý dưỡng kim, có thể mời Kỷ Mùi
củng mộc làm dụng. Đến năm Đinh mão, hội đủ mộc cục, có bệnh được dược, thắng lợi
trường thi.